Mường Lay là thị xã ngã ba sông chiếm trên 80% là đồng bào dân tộc thiểu số (có bản 100% là người Mông). Thị xã đang trong quá trình tái thiết nên đời sống của nhân dân chưa ổn định, số hộ nghèo ở các bản còn cao; môi trường bị ô nhiễm; liên lạc đi lại khó khăn; số lượng học trò (HS) luôn biến động… nên việc thực hành nhiệm vụ phổ cập giáo dục và duy trì sĩ số HS trong toàn thị xã gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong ngổn ngang những khó khăn, chướng ngại mà thầy và trò ngành giáo dục thị xã đang hàng ngày nỗ lực vượt qua đã có rất nhiều thầy cô giáo hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để đem cái chữ đến với HS vùng cao - vùng đặc biệt khó khăn này. Và có nhiều thầy cô đã gắn bó với vùng đất Mường Lay hơn 1/4 thế kỷ của nghiệp làm thầy với niềm mong muốn tột đỉnh là được “gieo chữ” cho các em HS giữa đại ngàn Tây Bắc để giúp các em có kiến thức, sau này lớn lên xây dựng quê hương và bảo vệ giang san. Cô Kim Lý, đay măng non bản Huổi Luân. Dành trọn tuổi thanh xuân cho học sinh Cô giáo Vương Thị Kim Lý (người dân tộc Thái, quê Lai Châu) tự nguyện về trường Mầm non Lay Nưa (xã Lay Nưa) công tác 21 năm. Gần 10 năm nay, cô tiếp kiến “xung phong” về bản Huổi Luân (đây là bản vùng cao rất khó khăn, cách trọng tâm xã gần 10km) gánh vác trọng trách cô giáo cắm bản (theo chế độ 135) dạy ở bậc măng non (từ 3 - 5 tuổi) tâm sự: Bản Huổi Luân là bản 100% là người Mông, hiện có 15 hộ dân với 121 nhân khẩu. Lớp học tạm dành cho lứa tuổi măng non ở đây mới được mở từ niên học 2009 - 2010 đến nay và phải đi mượn đất của nhà bí thơ chi bộ ở bản để dựng lớp. Lớp học được đồng bào chung tay góp sức dựng lên để các cháu có chỗ ngồi học. Nói là lớp học cho “oai” nhưng thực ra rất lâm thời, xung quanh che bạt cho đỡ gió, nền đất, thiếu thốn mọi thứ, thiếu đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị phục vụ việc dạy và học, các thầy cô ở đây đều phải tự tạo ra… nên ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học của thầy, trò nơi đây. Cô Lý nhớ lại: Lần đầu tiên được phân công đi cắm bản, nói thực những người trẻ, chưa lập gia đình như chúng tôi quả thật rất nản. Tuy nhiên, khi đặt chân đến các bản cách xa trung tâm xã hàng chục km, chúng tôi được đồng bào ở bản mình công tác thương yêu, đùm bọc, trợ giúp rất nhiều nên dần dần chúng tôi đã vượt qua những chướng ngại, hòa nhập và hiểu đồng bào hơn… Cũng theo cô Lý, để làm tốt nhiệm vụ của mình đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải thực sự máu nóng với nghề, bền chí, kiên nhẫn và phải gần dân, thương yêu các cháu như con mình thì mới thuyết phục được các cháu đến lớp và duy trì ổn định sỹ số lớp. Mặt khác, mỗi thầy cô làm trách nhiệm cắm bản phải biết hoặc hiểu được tiếng bản địa và phong tục tập quán của đồng bào nơi mình công tác mới mong thực hiện được nguyện ước “gieo chữ” cho học trò nghèo vùng cao. Đến với Huổi Min là bản khó khăn nhất của thị xã Mường Lay với 100% là người Mông, cách xa trung tâm thị xã chừng 30km, đường sá đi lại khôn xiết hiểm trở (bên núi cao - bên vực sâu) nên việc đến trường của các em HS gặp rất nhiều khó khăn. Có em HS từ nhà xuống điểm bản để học phải mất hàng tiếng đồng hồ đi bộ. Thầy Lê Thiếu Nam (quê huyện Hưng Hà, tỉnh thăng bình) tình nguyện lên Mường Lay công tác từ năm 1972 đến nay (cắm bản gần 3 năm ở Huổi Min) cho biết: Bản Huổi Minh chỉ có 14 hộ với 84 nhân khẩu nhưng hàng năm cứ đến tháng 4 là nhà nào cũng đói cho đến tận tháng 8 thu hoạch ngô thì mới có cái để mà ăn. HS ở bản tuy rất nghèo nhưng chăm học, không có em nào nghỉ học hay đi học muộn mà thầy cô phải vận động. Có nhiều em học rất tốt nhưng khổ nỗi sách vở thiếu, có khi 3 em phải học chung nhau một cuốn sách giáo khoa. Gần cả đời người gắn bó với mảnh đất và học sinh nơi đây, tôi thấu hiểu được những nỗi nhọc nhằn của dân bản, hiểu về đời sống, phong tục tập quán của họ; hiểu về nỗi buồn vui của những thầy cô giáo và các thế hệ HS nghèo vùng cao. Và vượt qua cả thảy nỗi vất vả của địa hình rừng núi, sự tâm huyết của người làm trọng trách trồng người và sự thông cảm, chia sẻ của gia đình, người nhà, các thầy cô vào cắm bản ở đây đều rất mực thương yêu học sinh, muốn truyền lại kiến thức cho các em; giúp các em học được cái chữ làm hành trang bước vào đời vững vàng hơn, có tri thức để sau này phục vụ quê hương. Một lớp học tạm ở bản Huổi Min. Cả cuộc thế nguyện ước được “gánh chữ” lên ngàn Cuộc sống thiếu thốn, giao thông đi lại khôn xiết khó khăn, cơ sở vật chất trường lớp chưa hoàn chỉnh; vẫn còn nhiều nhà học nhất thời; trang thiết bị dạy và học rất thiếu thốn… nhưng bằng tấm lòng và nghĩa vụ của những người phụ trách trọng trách trồng người, các thầy cô giáo ngành GD&ĐT Điện Biên nói chung và thị xã Mường Lay nói riêng đã không ngừng nắm, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ cao cả vì sự nghiệp trồng người của mình. Cô giáo Nguyễn Thị Bình (quê gốc thanh bình) nhưng sinh ra và lớn lên ở vùng đất Mường Lay tâm tư: Bố mẹ em đều người gốc thăng bình lên đây khai thác từ năm 1963 (theo diện di dân xây dựng vùng kinh tế mới theo chủ trương của Đảng), em vào cắm bản ở Huổi Min được gần 3 năm. Thời kì đầu được cắt cử vào bản, em cũng cảm thấy rất buồn tẻ, nhưng có xuống bản mới hiểu được tấm lòng của đồng bào. Họ yêu mến, kính trọng thầy cô như những người cật ruột trong gia đình. Họ sẵn sàng sẻ chia để làm vơi đi nỗi buồn, nỗi nặng nhọc để các thầy cô yên tâm công tác. Hơn nữa, HS ở đây cũng ham học. Các em không quản ngại đường xa, mang cả gạo đến trường góp vào bữa ăn chung cùng các bạn để yên tâm học hành. Thấy các em HS chịu khó học hành, không phải mất nhiều công sức đến tận nhà vận động các em ra lớp học đó là động lực, là niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên bến của các thầy cô nên chúng tôi mang hết máu nóng của mình vì các em HS. Cùng tâm nguyện như cô Bình, cô Lý và thầy Nam đã không quản lí khó khăn dành cả thế cục mình cho sự nghiệp giáo dục nơi đây. Thầy Nam tâm tư: Tôi đã rất nhiều lần xuống bản cách trường nửa ngày đi bộ băng qua rừng núi để xuống tận nhà HS vận động, thuyết phục gia đình và HS đến lớp đúng độ tuổi và duy trì đủ sỹ số. Cô giáo Lã Thị Diên - Hiệu trưởng trường THCS Sông Đà (quê thanh bình) lên Mường Lay công tác 29 năm tâm sự: Đời sống của đồng bào và thầy giáo nơi đây còn nặng nhọc, thiếu thốn đủ bề. Nhưng với sự quyết tâm vượt khó của các thầy cô cùng sự cần mẫn học tập của HS đã thôi thúc các thầy cô yên tâm công tác. Nhưng, chướng ngại lớn nhất đối với giáo dục vùng cao là việc đi lại của HS quá khó khăn, tỷ lệ đồng bào là người dân tộc thiểu số cao (chiếm hơn 90%), cơ sở vật chất quá thiếu thốn… nên công tác giáo dục còn nhiều khó khăn. Hơn nữa, do thị xã đang trong quá trình quy hoạch tái định cư chậm, rất nhiều càn phải đi thuê nhà giá đắt đỏ, chuyển di nhiều lần nên đời sống ăn ở của càn còn nhiều đảo lộn. Vì thế, yêu cầu các cấp, ngành liên hệ cần quan hoài hơn nữa đến đời sống đay nghiến vùng cao giúp họ yên tâm cống hiến cho ngành giáo dục. San sớt với những khó khăn, khó nhọc của cán bộ bố, bà Trần sở thích - Trưởng phòng GD&ĐT thị xã Mường Lay cho hay: Ở khắp thị xã này hễ mưa là lầy, nắng là bụi, nhưng các em HS luôn rộn ràng tiếng cười khi đến trường... Tuy còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng thầy cô luôn nắm vượt khó, tâm huyết với nghề và dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục Mường Lay. Song song với việc giáo dục, ngành giáo dục thị xã còn đẩy mạnh việc lồng ghép giáo dục môi trường, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục luật pháp, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh… Chia tay chúng tôi, bà Hiếu trằn trọc: Để HS Mường Lay “đuổi kịp” miền xuôi, đề nghị Bộ GD&ĐT, chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư trang thiết bị phục vụ việc dạy và học; tạo điều kiện tương trợ về nhà ở cho bố… giúp họ yên tâm công tác.
|
Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013
Gánh chữ, Gánh cả tình thương
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét