Cứ đều đặn và liền tù tù, những lý lẽ này đã phá vỡ được thành kiến ăn sâu trong người dân xã Liệp Tuyết - mọi người đã tham gia học hát Dô càng ngày càng đông
Vâng. Tôi đến nhà từng cụ, hỏi và ghi chép tường tận từng câu hát ra giấy.Có nhẽ bởi vậy nên điệu hát ngày một dần mai một. Nhiều gia đình do vậy mà tìm mọi cách cản ngăn con cháu trong nhà tìm về điệu hát truyền thống này, thậm chí có những cụ già cả đời không dám nhắc đến lễ hội văn hóa ấy vì sợ. Từ đó cho đến tận 36 năm sau, đến định kỳ lễ hội, không ai được mở tráp và thậm chí không bao giờ được nhắc đến. Bà kể: “Những năm trước khi tôi bắt đầu đi tìm hiểu về hát Dô thì may mắn có 3 cụ là: cụ Điều, cụ Nhuận và cụ Lai từng tham dự hát tại lễ hội đền Khánh Xuân cuối cùng năm 1926, còn sống.
Nghe có người mách một số cụ ở thôn Cổ Hiền, thôn Ao Sen biết về hát Dô, tôi lại cắp sách sang tận nơi để học, ghi chép đầy đủ 36 làn điệu. Bà còn kĩ càng ghi chép và thuyết phục các cụ cao niên truyền dạy lại cho lớp trẻ.
Em Kiều Thị Hương, thành viên luôn tham dự câu lạc bộ hát Dô san sẻ: “ban sơ ba má em không muốn cho đi nhưng sau khi bà Lan vận động, em cũng muốn đi nên thuyết phục bố mẹ cho đi.
Từ buổi học hát ban sơ ấy, người dân Liệp Tuyết như sống trong một bầu không khí mới. Điệu hát Dô – một trong những nét văn hóa truyền thống của người dân Liệp Tuyết sẽ không chỉ được khôi phục mà còn đang nuôi dưỡng một sinh khí mới, là một phần quan yếu không thể thiếu trong đời sống ý thức của người dân nơi đây.
Bà Nguyễn Thị Lan trong trang phục lễ hội hát Dô Vượt qua lời nguyền sang trọng một thời gian dài, hát Dô tưởng chừng đã thất truyền, nhưng bằng sự cuộn của chính những làn điệu truyền thống ấy, cùng với niềm kiêu hãnh của người dân Liệp Tuyết, vượt qua những điều cấm kỵ với quyết tâm khôi phục làn điệu truyền thống quý báu của quê hương, bà Nguyễn Thị Lan - chủ toạ Hội nữ giới xã, đã dày công sưu tầm những điệu Dô cổ.
Lời nguyền bí ẩn Hát Dô là thể loại dân ca nghi lễ, hình thành và phát triển trên mảnh đất xã Liệp Tuyết, gắn với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản, vị thần đứng đầu trong "Tứ bất diệt" linh thiêng của dân tộc ta.
Sau bố mẹ em cũng đồng ý. Giờ đây cứ vào chủ nhật hàng tuần là các em gái này lại tập hợp về đình làng để được học các làn điệu hát Dô của quê hương. Phạm vào những điều cấm kỵ của lời nguyền thì người đó sẽ còm cõi, thậm chí bị câm, điếc rồi đổ bệnh nặng mà chết.
Đã từ rất lâu, người dân làng ám ảnh nỗi lo sợ mơ hồ về một lời nguyền được truyền từ đời này sang đời khác. Không biết lời nguyền này có tự bao giờ và độ chuẩn xác của nó đến đâu, nhưng cho đến nay, nhiều người trong làng biết chuyện đều cấm con cháu không được học hay cất lời hát Dô.
Hải Đăng. Nội dung diễn xướng hát Dô phản ánh nhận thức của người dân lao động về thiên nhiên, con người, ước mong một cuộc sống phong túc, hạnh phúc. Sau này, người ta tìm được bản hát chữ Nho viết trên giấy dó, dịch ra so với bản tôi chép tay từ các cụ thì bản chép tay chỉ sai vài từ”. Sau này tôi mới biết nhiều gia đình không đồng ý cho con họ đi hát Dô vì sợ lời nguyền”.
Theo tục tằn xưa, người dự hát Dô phải thuộc dòng dõi con nhà gia giáo, không phạm lệ làng và phải là những cô gái chưa chồng, chàng trai chưa vợ. Qua mỗi buổi học, chúng em không chỉ được học hát mà còn được nghe các nghệ nhân trong làng kể về sự tích hát Dô”.
Và cả sách hát cũng phải cất vào đền). Đối tượng tham dự chủ yếu là các em gái tuổi từ 15 - 20, toàn bộ đều là con em trong làng. Từ đó, em cầm cố đi học hát đều. Giờ câu lạc bộ có 20 – 30 thành viên tham gia thẳng. Bà bảo: “Lúc đầu cũng oải lắm, vì cứ vận động được người này thì một thời kì sau người kia lại nghỉ, có hôm 12h đêm mới về đến nhà. Những lời phân tách có lý, có tình của bà Lan, sau một thời kì đã thay đổi được nhận thức của người dân.
Nếu có ai mở tráp hoặc cất tiếng hát thì sẽ bị lời nguyền quở vào thân, thậm chí lời nguyền còn ám đến tận đời con, đời cháu. Có được bản chép 36 làn điệu hát Dô, bà Lan bắt đầu đi khắp 5 thôn 6 xóm vận động để thành lập câu lạc bộ hát Dô.
Các em ở độ tuổi từ mười một đến mười bốn, sáng đi học, chiều ra bãi trồng ngô, nhưng tối về lại í ới gọi nhau tập hát.
Lễ hội xong phải làm lễ nghi cất tráp vào đền (cả thảy các đồ dùng trong lễ hội như khăn, váy áo, quạt, túi đeo tay đựng trầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét