Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Siết chặt quản lý đào tạo tại chức cùng đọc lại.

Nhưng khâu đột phá đó có thể là gì? Không phải là tình cờ mà các nước có nền giáo dục tiền tiến rất chú trọng khâu kiểm định chất lượng

Siết chặt quản lý đào tạo tại chức

Đáng ra, với đối tượng SV trưởng thành (mature students - khái niệm gần tương đương với SV tại chức của Việt Nam, để chỉ những SV đã quá độ tuổi đi học đại học, thường tính từ 24 tuổi trở lên) thì không nên quá khe khắt như với SV học đúng tuổi.

Do vậy, nếu tiếp duy trì hệ đương chức như hiện nay thì viễn tượng trước mắt sẽ là sự tiếp chuyện gia tăng tẩy chay đối với bằng đương thứ, không chỉ từ phía các nhà tuyển dụng mà còn từ các SV, vì đi học để làm gì khi tấm bằng tốt nghiệp chẳng thể dùng? Tình trạng giờ của hệ đương nhiệm đang đặt cơ quan chức năng trước một số chọn lọc.

Đặc biệt, nhìn từ góc độ nhà trường và giảng sư thì rõ ràng phần đông các chương trình đào tạo đương chức chỉ được coi là "chương trình hạng hai", là "nồi cơm" của các thầy và của nhà trường, nơi trò không muốn học và thầy không muốn dạy, chỉ làm việc quấy quá cho xong.

Chọn lọc chung cuộc, và cũng là tuyển lựa hợp lý nhất nếu có thể thực hành được, đó là tìm ra được một khâu đột phá trong cách quản lý hệ đào tạo này, từ đó cải thiện nó để nó tồn tại một cách xứng đáng trong hệ thống giáo dục của đất nước.

Chọn lọc thứ hai là quốc gia giúp các trường duy trì hệ đào tạo đương chức bằng cách xử lý nghiêm những trường hợp tẩy chay bằng đương chức. Tuy nhiên, theo quan điểm đương đại về giáo dục thì đầu vào không phải là yếu tố tác động có tính quyết định đến chất lượng. Điều đó tạo ra một nghịch lý là bằng đương thứ học ra chỉ để vào làm cho cơ quan Nhà nước.

Và một khi đã được nhận vào học thì hoàn toàn không hề có sự phân biệt nào giữa các SV, bít tất mọi SV ra trường đều được cấp cùng một loại bằng như nhau. Nhưng dù xảy ra ở địa phương nào thì lý do để các tỉnh "nói không" với bằng đương nhiệm cũng chỉ có một thôi, đó là: chất lượng kém! Sự tồn tại của hệ đào tạo đương chức rõ ràng là đã từng và hiện vẫn đang còn cần thiết để tạo điều kiện cho những người ngoài độ tuổi đi học truyền thống nâng cao trình độ và cải thiện dịp nghề.

Vậy phải có cách nào để vừa duy trì hệ đào tạo đương thứ (hoặc một hệ đào tạo nào khác bên cạnh hệ đào tạo chính quy) theo chủ trương học tập suốt đời, đồng thời kết thúc việc tẩy chay người có bằng đương thứ, giải quyết dứt điểm tình trạng lãng phí thời kì, công sức của người học vì có bằng mà không dùng được như hiện nay? Đã có nhiều quan điểm hay quanh vấn đề này.

Tát, nếu bắt ép thì có lẽ Nhà nước cũng chỉ có thể buộc các cơ quan và đơn vị công lập phải nhận SV đương thứ thôi, chứ chẳng thể bắt ép các doanh nghiệp tư nhân. Sinh viên trọng tâm Đại học tại chức TP Cần Thơ trong giờ thực hiện vi tính. Đều được xem xét kỹ lưỡng, được đánh giá và đưa ra những đề nghị cải thiện nếu có.

Giờ lên lớp tại một khóa đào tạo tại chức. Có thể nói, kiểm định chương trình chính là cơ chế kiểm soát bên ngoài để giúp các chương trình đào tạo luôn đi đúng hướng và đạt được mục tiêu mà mình đã đề ra.

Rất nhanh sau đó, Bộ GD-ĐT đã có chủ trương siết chặt việc quản lý đào tạo đương chức, bằng cách giao chỉ tiêu tuyển sinh dựa vào năng lực thực hiện của trường (trước đó cách làm này chỉ ứng dụng đối với hệ chính quy).

* Để hệ đương nhiệm có thể được cải thiện thì Việt Nam cần chóng vánh thiết lập hệ thống kiểm định nghề, song song đưa yêu cầu về kiểm định thành một điều kiện bức về năng lực.

Còn nhớ năm 2010, dư luận đã một phen xôn xang khi báo chí đưa tin Sở Nội vụ của TP Đà Nẵng khước từ tuyển dụng các viên chức có bằng đương chức. Điều quan yếu là cần đánh giá xem các giải pháp vừa nêu có thể khả thi trong điều kiện của chúng ta hay không? Trước hết, có thể thấy việc kiểm soát quy mô đầu vào đang được Bộ GD-ĐT tiến hành suốt mấy năm qua

Siết chặt quản lý đào tạo tại chức

Ở các nước tiền tiến trên thế giới, ví dụ như ở Mỹ và ở Ô-xtrây-li-a, đề nghị đầu vào đối với các SV trưởng thành rất linh hoạt, thậm chí bằng lòng cả những người chưa hoàn thành bậc THPT, nếu xét thấy quá trình làm việc và các kỹ năng đã tích lũy có thể bảo đảm việc học thành công của SV. Chương trình thiếu cập nhật, quá thiên về lý thuyết, không gắn với thị trường cần lao, phương pháp giảng dạy lạc hậu, đó chính là những điểm yếu trầm kha của giáo dục đại học Việt Nam, không chỉ riêng với hệ đương chức mà còn cả với hệ chính quy.

Ảnh: THANH VŨ (TTXVN) VŨ THỊ PHƯƠNG ANH. Điều này có tức thị nếu các cơ sở đào tạo nào không có khả năng đáp ứng thị trường lao động thì hẳn nhiên sẽ không còn cuốn được người học, và hệ đương chức của cơ sở ấy sẽ phải tự đóng cửa. Cách làm này không sai về mặt pháp lý, nhưng thiếu tính nhân văn và sai về phương pháp vì không thể ép người sử dụng cần lao chấp nhận những viên chức kỹ năng kém làm việc cho họ.

Chọn lọc đầu tiên là không can thiệp gì cả, mà để cho cơ chế thị trường tự điều chỉnh.

Có như vậy mới nâng cao chất lượng loại hình đào tạo đương chức. Chính kiểm định cấp chương trình mới là khâu đột phá nhằm giải quyết vấn đề nan giải liên quan đến hệ tại chức tại Việt Nam. Có thể nói, kiểm định chất lượng là bí quyết để thực hiện thành công các giải pháp đã nêu ở phần trên. Ba giải pháp nêu trên là khá hợp lý và toàn diện, vì chúng có can dự đến chất lượng của cả ba khâu trong quá trình đào tạo gồm: đầu vào, quá trình đào tạo và đầu ra.

Gần đây nhất, ông Trịnh Ngọc Thạch, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, nêu ý kiến về các giải pháp cần thực hành như sau: (1) Kiểm soát tốt đầu vào, tuyển sinh ở một quy mô vừa phải, căn cứ trên khả năng của cơ sở đào tạo; (2) Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy cần thích hợp với đối tượng sinh viên (SV), không nép phải giống hệt với SV chính quy; (3) Chú trọng đáp ứng nhu cầu dùng của người học và của thị trường lao động.

Tuy nhiên, tình trạng "tẩy chay" bằng đương thứ không hề giảm đi mà tiếp tăng lên, danh sách các địa phương được bổ sung thêm Nam Định năm 2011, Quảng Nam năm 2012 và hiện thời là hàng loạt các địa phương khác như Quảng Bình, Hà Nam, Hải Dương và cả Thủ đô Hà Nội. Khi một chương trình được kiểm định thì hết thảy những thông báo về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, rà soát đánh giá người học, cơ sở vật chất phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu, sự ưng của SV, khả năng kiếm việc làm và nhịp thăng tiến trong nghề nghiệp của cựu SV.

Ảnh: NAM SƯƠNG        Sự kỳ thị đối với tấm bằng đương nhiệm không còn là vấn đề mới mẻ.

Các tổ chức kiểm định nghề có gắn kết rất chém với các hiệp hội nghề nên họ hiểu rất rõ nhu cầu thị trường cần lao. Tuy nhiên, nếu tình trạng bừa bãi không được giải quyết, sẽ gây hoang rất lớn về thời gian, tiền nong và công sức của cả thầy và trò, song song sẽ gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Cần biết rằng, kiểm định chất lượng có hai cấp độ với các đích khác nhau là kiểm định cấp trường là điều mà hệ thống giáo dục Việt Nam đã quen, và kiểm định nghề nghiệp (còn gọi là kiểm định cấp chương trình đào tạo) có hệ trọng trực tiếp đến chất lượng đầu ra của sinh viên tốt nghiệp thì ở Việt Nam hoàn toàn chưa hề tồn tại.

Trong khi đó, khả năng cải thiện nội dung và phương pháp giảng dạy hệ đương nhiệm, để đáp ứng nhu cầu dùng của cả người học và thị trường cần lao là rất thấp, nếu không có một điểm tựa nào để đột phá.

Thực ra, đây là điều đang diễn ra ở nước ta.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét