Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

3% người giúp việc bị lạm dụng tình dục hay hay.

Hiện, 90% quan hệ lao động giữa chủ và người lao động có thỏa thuận bằng miệng, 3% thỏa thuận bằng văn bản, còn 7% không có thỏa thuận

3% người giúp việc bị lạm dụng tình dục

Cụ thể, hoàn thiện các quy định luật pháp về cần lao GVGD, có kế hoạch, lịch trình chuyên nghiệp thị trường cần lao GVGĐ và ban hành các quy định cụ thể về trách nhiệm theo dõi, giám sát, cung cấp dịch vụ xã hội của các cơ quan quản lý quốc gia về cần lao các cấp, các tổ chức xã hội. Tuy nhiên, phần lớn người GVGĐ còn thiếu kỹ năng và phẩm chất cho công việc.

Quan hệ giữa chủ và người GVGĐ cũng theo cảm tính, chứ không có “chuẩn” nào, còn kỹ năng nghề của người GVGĐ so với tiêu chuẩn người GVGĐ của nước ngoài thì có khoảng cách lớn.

G. Bởi thế, nhóm nghiên cứu cũng khuyến nghị, Nhà nước cần có định hướng về quản lý và phát triển cần lao GVGĐ. 11% số nữ giới được hỏi cho biết đã tìm việc duyệt y trọng tâm giới thiệu việc làm, còn lại 89% chuẩn y mối quan hệ bạn xã hội, những người GVGĐ giới thiệu cho nhau… Đáng quan hoài, 47/100 người GVGĐ cho biết có cảnh ngộ đặc biệt như ly hôn, ly thân, góa bụa… 100% số phụ nữ được hỏi cho biết họ phải làm vớ các công việc trong gia đình như trông trẻ, đi chợ, thổi nấu, giặt giũ… với thời gian làm việc trung bình là gần 13 giờ/ngày.

Trong 90% thỏa thuận bằng miệng thì cốt tử thỏa thuận về lương, đặc biệt gần như chơi ai có thỏa thuận về thưởng. Tính nhàng nhàng, thu nhập của người GVGĐ trên địa bàn Hà Nội là 3,1 triệu đồng/tháng, không bao gồm uổng ăn, ở. Thực tế đã xảy ra những chuyện như người giúp việc cho giày da vào máy giặt hay lấy dao để tháo quạt máy và làm quạt hỏng… Có tới 41/100 trường hợp cho biết từng có bất đồng giữa chủ và người GVGĐ; có 26% người GVGĐ từng gặp cảnh huống khó xử, trong đó 10% liên can đến bạo hành ý thức (đe dọa, xúc phạm), 3% bị lạm dụng dục tình.

Bà Lê Thị Thủy, Giám đốc trọng điểm Nghiên cứu tương trợ gia đình và phát triển cộng đồng nhận định: Về mặt xã hội, nghề GVGĐ chưa được tầng lớp trọng, việc quản lý lao động GVGĐ trên địa bàn dân cư nơi đến còn mang tính tự phát và chưa có quy định cụ thể, sự kiểm soát hành vi của tầng lớp với người giúp việc nhập cư chỉ duyệt y mạng tầng lớp.

Đối với các địa phương, cần tổ chức tham mưu tại các trọng điểm tổ chức cộng đồng cho người GVGĐ, sử dụng đường dây nóng để thông báo, tư vấn miễn phí các trường hợp cấp thiết; xây dựng bộ chỉ số để đánh giá tiêu chuẩn người cần lao GVGĐ và chiến lược đào tạo nhân công cho nghề GVGĐ.

Điều đáng nói, các trọng điểm giới thiệu việc làm gần như chơi quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng nghề cho người GVGĐ. Đồng thời, phân cấp quản lý việc dùng lao động GVGĐ từ cấp cơ sở, xác định cơ quan quản lý việc đào tạo tuyển dụng người GVGĐ, tăng cường kiểm tra việc tuân luật pháp về lao động GVGĐ và khuyến khích người cần lao tham gia các tổ chức, đoàn thể quần chúng tại địa phương làm việc.

H. Theo số liệu thống kê, có khoảng 10% người giúp việc bị bạo hành ý thức Hiện, cũng chưa có quy định buộc các trung tâm giới thiệu việc làm phải quản lý và chịu bổn phận về người GVGĐ mà mình đã môi giới.

Hiện Hà Nội có gần 300 trọng điểm giới thiệu việc làm, nhưng số các trọng điểm có đào tạo kỹ năng cho GVGĐ chưa đến 1%.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét